Lãi suất thỏa thuận không vượt quá 20%/năm
Với 429/446 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Bộ Luật Dân sự (BLDS) sửa đổi đã được thông qua tại phiên họp sáng 24/11, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIII.
Đây là bộ luật lớn, quan trọng, chi phối đến mọi công dân và tổ chức sinh sống và hoạt động tại Việt Nam và đã được Quốc hội đưa ra thảo luận, cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 9.
Để thông qua được Bộ luật này, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã dành trọn một ngày để tiếp tục thảo luận sâu về Bộ luật và đã có hơn 40 ý kiến trực tiếp tại hội trường trình bày về những vấn đề cần làm rõ, những trăn trở và kiến nghị sửa đổi, bổ sung với mong mỏi phát huy cao nhất tính hiệu lực của Bộ luật khi được áp dụng từ đầu năm 2017 tới.
Chốt phương án lãi suất 20%/năm
Một trong những nội dung đáng quan tâm nhất trong BLDS vừa được thông qua là việc Quốc hội chốt phương án về lãi suất (Điều 468). Trước đó, trong thảo luận lấy ý kiến của các đại biểu về BLDS, đã có rất nhiều ý kiến liên quan đến cách xác định lãi suất vay giữa các bên.
Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định mức lãi suất cố định ngay trong BLDS là tối đa 20%/năm của khoản tiền vay (phương án 1 trong dự thảo BLDS). Loại ý kiến thứ hai tán thành sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu (phương án 2) và không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Và cũng có loại ý kiến thứ ba không đồng tình với cả hai phương án trên, hoặc đồng tình nhưng phải có thêm những bổ sung, sửa đổi.
Tán thành với loại ý kiến thứ nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã gửi phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội về mức lãi suất tối đa. Theo báo cáo giải trình của UBTVQH, kết quả thu được: Có 278/366 đại biểu phiếu tán thành quy định mức lãi suất cố định ngay trong BLDS tối đa là 20%/năm của khoản tiền vay.
Trên cơ sở phương án dự thảo do Chính phủ trình và kết quả lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội này, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến đa số đại biểu Quốc hội và chỉnh lý nội dung này tại khoản 1 Điều 468 cho bảo đảm tính khái quát, khả thi như sau: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, UBTVQH quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất”.
Đồng thời, do khoản 1 Điều 468 đã được chỉnh lý như trên theo hướng không sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu nên UBTVQH cũng đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý lại quy định tại khoản 2 Điều 468 về mức lãi suất ấn định trong hợp đồng vay có lãi nhưng các bên không có thỏa thuận rõ về lãi suất dẫn đến tranh chấp như sau: “Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Tại phần biểu quyết thông qua riêng về Điều 468, có 410/440 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Có 24 đại biểu không tán thành và 6 đại biểu không biểu quyết.
Hoàn cảnh thay đổi cơ bản, được điều chỉnh hợp đồng
Tại Điều 420 về Sửa đổi hợp đồng trong Dự thảo BLDS đưa ra lấy ý kiến đại biểu nêu: 1/ Các bên có thể thoả thuận sửa đổi hợp đồng; 2/ Hợp đồng có thể được sửa đổi theo quy định tại Điều 419 của Bộ luật này; 3/ Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu.
Vấn đề này, qua thảo luận có hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất tán thành với cơ chế điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản nhưng đề nghị cần quy định cụ thể hơn về hoàn cảnh thay đổi, các trường hợp thay đổi và chủ thể được thay đổi hợp đồng. Loại ý kiến thứ hai không tán thành việc bổ sung Điều 420 vì cho rằng hợp đồng phải được giao kết, sửa đổi, chấm dứt trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên.
Giải trình vấn đề này, báo cáo của UBTVQH cho rằng, về nguyên tắc, việc giao kết, thực hiện hợp đồng phải dựa trên ý chí tự do, tự nguyện của các bên. Tuy nhiên, trong thực tiễn có nhiều trường hợp do những lý do khách quan dẫn đến hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức mà việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên. Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng nhưng không thể ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại và nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng đó sẽ dẫn tới nguy cơ phá sản.
Kết quả lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội cho thấy, có 251/366 phiếu tán thành với loại ý kiến thứ nhất. Trên cơ sở phương án dự thảo do Chính phủ trình và kết quả lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ nội dung điều này theo hướng chỉnh lý chặt chẽ hơn.
Cụ thể, Điều 420 trong dự thảo cuối cùng được thông qua mang tên: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Trong đó nêu rõ các điều kiện để xác định thế nào là “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” để bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
Trong trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án: Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định hoặc sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
Điều 420 cũng nêu rõ, trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
(http://thoibaonganhang.vn)