Ngành Ngân hàng 2011-2015: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng

Ngành Ngân hàng 2011-2015: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng

Ngành Ngân hàng 2011-2015: Góp phần mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng

“Có thể đánh giá 2011-2015 là một trong những giai đoạn mà ngành Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất nhưng cũng là giai đoạn thành công nhất từ trước đến nay. Uy tín, niềm tin của ngành Ngân hàng đang lên cao, vai trò trong nền kinh tế được khẳng định mạnh mẽ và đặc biệt là có được sự ủng hộ đồng tình rất lớn từ công chúng”.

Ông Trần Bắc Hà

Ông Trần Bắc Hà

Đó là nhận định của Chủ tịch HĐQT NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Trần Bắc Hà khi đánh giá về điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng trong thời gian qua.

Thưa ông, tại Hội nghị triển khai kế hoạch 2016 của ngành Ngân hàng vừa diễn ra, ông đã có một bài phát biểu được đánh giá cao với cách nhìn nhận, phân tích rất thấu đáo và sắc sảo về hoạt động của Ngành.

Nhân dịp năm mới 2016, ở giác độ một NHTM Nhà nước lớn, ông có thể cho biết đánh giá của mình về những điểm nhấn thành công trong điều hành CSTT của NHNN thời gian qua?

Chắc hẳn chúng ta đều đồng tình một trong những yếu tố quyết định thành công của ngành Ngân hàng thời gian qua là vai trò định hướng, dẫn dắt của Ban Lãnh đạo NHNN nói chung và cá nhân đồng chí Thống đốc nói riêng.

Với ngành Ngân hàng Việt Nam, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã xứng đáng với vai trò vị Tổng tư lệnh dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có độ “sắc”, “nhậy” trong tư duy và hành động. Dù kết quả đạt được là công lao chung của cả Ngành, nhưng rõ ràng vai trò của người đứng đầu Ngành là không thể phủ nhận.

Nổi bật là sự chủ động, quyết đoán, quyết liệt, linh hoạt trong điều hành, thực hiện điều hành các CSTT. Đặc biệt là dự báo trước và đúng các kết quả thực thi các cơ chế, chính sách, tạo sự đồng thuận của hệ thống đồng thời kiên định, quyết tâm, kiên trì trong thực thi, thực hiện các cơ chế chính sách.

Những điều này không chỉ cán bộ trong Ngành, lãnh đạo các địa phương thấu hiểu mà các chuyên gia kinh tế uy tín trong và ngoài nước đều ghi nhận, khẳng định thông qua các đánh giá xác đáng về những tiến triển ổn định của Ngành chúng ta.

Tôi còn nhớ trong một hội nghị triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng, tôi đã tặng Ban Lãnh đạo NHNN 10 chữ “Bản lĩnh – Đột phá – Thông tuệ – Hiệu quả và Niềm tin” và đến nay 10 chữ này đã được thực tế khẳng định mạnh mẽ:

Thứ nhất – bản lĩnh và niềm tin: bằng bản lĩnh, uy tín của Thống đốc và Ban Lãnh đạo NHNN, NHNN đã huy động sức mạnh tổng thể của toàn Ngành, tập hợp tất cả các NHTM trong hệ thống về một mối, cùng đồng lòng, chia sẻ khó khăn, nhất tâm thực hiện nhiệm vụ sát cánh cùng NHNN. NHNN đã rất lắng nghe, ủng hộ và từ đó đề ra với các biện pháp rõ ràng, hiệu quả, nhận được sự đồng thuận rất lớn của các NHTM.

Các NHTM đã rất nỗ lực, chủ động và có trách nhiệm, nghiêm túc trong việc thực hiện các nhiệm vụ tái cơ cấu. Đặc biệt là các NHTM nhà nước đã phát huy tốt vai trò chủ lực trong hệ thống, không những hoàn thành tốt những nội dung tái cơ cấu của bản thân mà còn tích cực tham gia tái cơ cấu các NHTM yếu kém trong hệ thống.

Thứ hai – đột phá: NHNN đã đưa vào triển khai hàng loạt biện pháp mới, sáng tạo, quyết đoán, thậm chí cưỡng bức hành chính và mang lại hiệu quả thuyết phục, điển hình như: (i) cho phép cơ cấu lại nợ (áp dụng Quyết định 780 có thời hạn), (ii) mua lại các NHTMCP thua lỗ với giá 0 đồng, (iii) đưa vào diện kiểm soát đặc biệt đối với các NHTMCP khó khăn, (iv) thay thế đội ngũ lãnh đạo NHTM khó khăn, yếu kém, (v) sáp nhập, hợp nhất tuỳ vào mỗi TCTD, (vi) xử lý nợ xấu trong bối cảnh giảm tối đa chi phí, tổn thất NSNN, (vii) hàng loạt các sáng kiến thúc đẩy tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp (các gói tín dụng, liên kết 4 nhà, liên kết NH-DN…), (viii) chủ động, tích cực truyền thông và phối hợp chính sách;

Thứ ba – thông tuệ: NHNN đã tạo ra sự đột phá trong hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý về chuẩn mực an toàn, minh bạch tiệm cận với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, như: đã ban hành Thông tư số 09/2014/TT–NHNN sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2014/TT–NHNN siết chặt việc xác định nợ xấu, bắt buộc phải ghi nhận nợ xấu ở các mục đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, những khoản cho vay trên liên ngân hàng; ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các tiêu chuẩn về an toàn hoạt động của hệ thống tiến gần hơn với thông lệ quốc tế.

Để phục vụ cho mục tiêu dài hạn về nâng cao năng lực quản trị của hệ thống, NHNN đã xây dựng kế hoạch triển khai áp dụng Basel II cho hệ thống và trước hết lựa chọn 10 NHTM thí điểm từ cuối năm 2015 trước khi triển khai mở rộng từ năm 2018.

Như vậy, NHNN không chỉ xử lý tình huống mà đã tính toán đến tương lai nhằm xây dựng được một hệ thống trật tự, kỷ cương, lành mạnh chuẩn bị cho hội nhập bình tĩnh và vững vàng.

Thứ tư – hiệu quả: NHNN đã điều hành các công cụ CSTT một cách chủ động, linh hoạt, quyết liệt và hiệu quả với định hướng rõ ràng, nhất quán.

Nổi bật trong đó là công cụ lãi suất đã được Ngân hàng nhà nướcđiều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất chính sách với liều lượng và vào thời điểm hợp lý. Tái cấp vốn được NHNN sử dụng để duy trì ổn định thanh khoản của hệ thống. Các công cụ khác như tỷ giá, hạn mức tín dụng… cũng được NHNN điều hành rất hiệu quả.

Ngoài ra, các giải pháp điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng đã có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

Với những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 2011-2015, tôi tin rằng trong năm 2016 và cả giai đoạn 2016-2020 sắp tới, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu lớn hơn. Năm nay, tôi cũng xin dành 10 chữ để tặng cho ngành Ngân hàng chúng ta đó là “Tự hào – Vững tin – Đổi mới – Hội nhập – Thành công”.

Vậy còn hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung thì sao, thưa ông? Nếu đưa ra một số lát cắt thành công, ông sẽ chọn những điểm nhấn nổi bật nào?

Năm 2015, kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì được đà phục hồi tích cực với mức tăng trưởng kinh tế cả năm dự báo đạt mức 6,75-6,85%; lạm phát dự báo tiếp tục duy trì ở mức thấp (dưới 1%); xuất, nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng khá; vốn FDI đăng ký và giải ngân tăng mạnh; tín dụng tăng trưởng khả quan; thị trường bất động sản có chuyển biến tích cực; môi trường kinh doanh có cải thiện đáng kể… Đóng góp vào thành công chung của điều hành kinh tế vĩ mô thời gian qua có vai trò không nhỏ của hệ thống ngân hàng và kết quả điều hành CSTT.

Chắc quý vị còn nhớ vào đầu năm 2011, ngành Ngân hàng đối mặt với hàng loạt vấn đề đặc biệt khó khăn, tình trạng gần như hỗn loạn và không kiểm soát được. Ở tầm toàn Ngành là tình trạng lãi suất quá cao (18-21%/năm) gây khó khăn cho sản xuất; tỷ giá ngoại tệ, giá vàng biến động mạnh gây bất ổn thị trường; các giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ kém thông suốt, căng thẳng thanh khoản thường xuyên diễn ra.

Hoạt động của các NHTM vô cùng khó khăn, rủi ro và dễ bị tổn thương; nợ xấu tăng cao đe doạ an toàn hệ thống, nhiều TCTD quy mô nhỏ ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự thị trường… Tuy nhiên, đến nay các vấn đề này về cơ bản đã được giải quyết.

Hoạt động ngành Ngân hàng năm 2011 và 2015 là 2 bức tranh hoàn toàn khác nhau, một bên là khó khăn vướng mắc còn một bên là tích cực khả quan; một bên là hỗn loạn, rủi ro còn một bên là trật tự ổn định.

Thứ nhất là thanh khoản thị trường từ chỗ thiếu hụt trầm trọng, thị trường liên ngân hàng biến động; sang đến những năm sau thanh khoản được đảm bảo với mặt bằng lãi suất giảm dần và hiện nay ổn định ở mức thấp, thị trường liên ngân hàng được vận hành thông suốt, góp phần ổn định thanh khoản thị trường, cung cấp thông tin biến động lãi suất và tình hình cung cầu vốn trên thị trường.

Thứ hai là mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm mạnh từ mức trung bình 17-18%/năm thời điểm cuối năm 2011 xuống còn mức 7-9%/năm đối với kỳ hạn ngắn và 9,5-11%/năm đối với trung dài hạn hiện nay, thậm chí đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất chỉ còn 6-7%/năm đối với ngắn hạn và 9-10,5%/năm đối với trung và dài hạn. Theo đánh giá, hiện nay mặt bằng lãi suất chỉ bằng khoảng 40% mức lãi suất vào nửa cuối năm 2011 và thấp hơn giai đoạn 2005-2006.

Thứ ba là về xử lý nợ xấu, giai đoạn năm 2011, tỷ lệ nợ xấu cao ở mức kỷ lục, theo công bố chính thức là 3,07% nhưng đây là con số theo sổ sách, có những thông tin xác định nợ xấu thời điểm đó trên 10%, thậm chí là lên đến 17,43%. Tuy nhiên, đến tháng 9/2015 tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 2,72%, đây là con số thực, lũy kế từ năm 2012 đến nay, hệ thống các TCTD đã xử lý được gần 463 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 100% tổng số nợ xấu ước tính tại thời điểm tháng 9/2012.

Thứ tư là về tái cơ cấu hệ thống TCTD: Có thể nói giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thành công nhất, có thể thấy qua các con số cụ thể: năm 2010 – thời điểm có số lượng các TCTD cao nhất là 130 tổ chức (không tính Ngân hàng Chính sách, Ngân hàng Phát triển, Quỹ Tín dụng nhân dân, Công ty tài chính quy mô nhỏ, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài), đến thời điểm năm 2011 – trước khi tái cơ cấu là 129 tổ chức và đến nửa đầu năm 2015, toàn hệ thống đã giảm 19 TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó đối với các NHTM đã giảm được 8/42 ngân hàng, chiếm tỷ lệ gần 19%.

Như vậy, một trong những mục tiêu của Đề án tái cơ cấu là giảm số lượng TCTD đã có sự chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu đã góp phần đẩy lùi những rủi ro bất ổn trên thị trường và quan trọng hơn, quá trình xử lý đã diễn ra an toàn không gây tác động tiêu cực đến hệ thống.

Đối với câu chuyện tái cơ cấu, tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm, nền kinh tế hiện đang tập trung vào 3 nhiệm vụ tái cơ cấu đó là Tái cơ cấu đầu tư công, Tái cơ cấu DNNN và Tái cơ cấu các TCTD tuy nhiên bản chất thì khác nhau. Nếu 2 nhiệm vụ đầu có đặc tính sở hữu là giữa nhà nước – nhà nước thì đối với nhiệm vụ số 3 đa chiều, phức tạp hơn đó là vấn đề sở hữu chéo, lợi ích nhóm, lũng đoạn, đầu cơ trên thị trường…

Đây là vấn đề đã tồn tại từ lâu, tuy nhiên, phải đến giai đoạn này thì mới được xử lý kiên quyết, mạnh mẽ và chính vì vậy được đánh giá là thành công nhất. Đây có thể nói chính là cuộc đấu tranh giai cấp giữa chuyên chính vô sản và tư bản tư nhân lũng đoạn làm méo mó thị trường.

Thứ năm là trật tự thị trường được thiết lập lại, theo đó nếu như trước đây trên thị trường ngoại hối, vàng biến động gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế; cạnh tranh giữa các ngân hàng thiếu lành mạnh. Đến nay trật tự trên thị trường ngoại hối, vàng, lãi suất đã được ổn định an toàn trong quản lý của NHNN.

Điểm cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh hơn cả đó là ngành Ngân hàng từ chỗ bị đánh giá là một trong những nhân tố góp phần ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế với tình trạng nợ xấu cao, hoạt động hỗn loạn thì đến nay đã trở thành một trong những động lực quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. NHNN không những đã thực hiện thành công vai trò của một NHTW mà còn thực hiện tốt nhiệm vụ là một thành viên Chính phủ.

Điều này thể hiện qua 3 giác độ:

Giác độ thứ nhất là mối tương quan giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP:

Chúng tôi đã đo lường cụ thể mức độ liên hệ giữa 2 chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP trong kỳ. Kết quả cho thấy quan hệ giữa diễn biến tăng trưởng tín dụng và GDP trong giai đoạn 2011-2015 là thuận chiều và chặt chẽ ở mức 0,74 trên tối đa là 1 và tối thiểu là -1.

Luận điểm này cho chúng ta một kết luận quan trọng hơn. Đó là mặc dù về quy mô tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn thấp hơn so với giai đoạn trước nhưng hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lại được cải thiện đáng kể. Có được điều này là hoạt động tín dụng trong giai đoạn đã có sự thay đổi về chất với tăng trưởng tập trung vào các khu vực sản xuất thực của nền kinh tế, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần hạn chế rủi ro.

Giác độ thứ hai là ở vai trò hỗ trợ đắc lực cho cộng đồng doanh nghiệp phát triển thông qua việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về sản xuất kinh doanh, cơ cấu/tái cơ cấu tài chính, cơ cấu nợ, cung ứng vốn cho doanh nghiệp với các chương trình tín dụng ưu tiên, miễn giảm lãi cho khách hàng, hạ lãi suất, tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng…

Đến nay, các tỉnh, thành đã tổ chức được trên 440 hội nghị đối thoại, tổng số tiền cho vay theo chương trình đạt trên 570.000 tỷ đồng với hơn 38.000 khách hàng doanh nghiệp và hơn 122.000 đối tượng khác. Tổng số tiền các ngân hàng cam kết cho vay mới đạt hơn 500.000 tỷ đồng và gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, nâng hạn mức tín dụng, điều chỉnh giảm lãi suất cho các khoản vay cũ… với dư nợ gần 70.000 tỷ đồng.

Có thể thấy khá rõ kết quả là đến nay sản xuất tiếp tục phát triển, sức cầu tiếp tục cải thiện tích cực và chỉ số sản xuất công nghiệp IIP 11 tháng tăng 9,7%.

Giác độ thứ ba là hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế, cân đối các vùng miền với các chương trình xúc tiến đầu tư vào Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam bộ, Miền Trung…; Chương trình phát triển hạ tầng đô thị; Đặc biệt, NHNN đã chủ động đề xuất và triển khai các chương trình ưu tiên như Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Chương trình đánh bắt xa bờ theo Nghị định 67, Chương trình nhà ở xã hội, đặc biệt các chương trình an sinh xã hội (ASXH) với con số chỉ trong vòng 5 năm tổng số tiền tài trợ ASXH của cả ngành Ngân hàng là 12.700 tỷ, bình quân mỗi năm trên 4.000 tỷ bằng thu ngân sách của 1 tỉnh trung bình của cả nước; Đây có lẽ là các chương trình và công việc riêng có của NHTW Việt Nam..

Với những kết quả hết sức thuyết phục đó, có thể đánh giá giai đoạn 2011-2015 là một trong những giai đoạn ngành Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất nhưng cũng là giai đoạn thành công nhất từ trước đến nay. Uy tín, niềm tin của ngành Ngân hàng đang lên cao, vai trò trong nền kinh tế được khẳng định mạnh mẽ và đặc biệt là có được sự ủng hộ đồng tình rất lớn từ công chúng…

TP. Hồ Chi Minh - Trung tâm tài chính-tiền tệ của cả nước

TP. Hồ Chi Minh – Trung tâm tài chính-tiền tệ của cả nước

Có ý kiến cho rằng, thời gian qua, việc thực thi CSTT còn tác động tích cực tới chính sách tài khóa. Ông có nhận xét gì về ý kiến trên?

Đúng vậy, đặc biệt là trong giai đoạn 2011-2015.

Điều này có thể thấy rõ qua 2 đợt phát hành trái phiếu Chính phủ với tổng lượng phát hành thành công khoảng 400,000 tỷ, trong đó, hệ thống ngân hàng đã mua 327,000 tỷ, chiếm khoảng 82%. Đây chính là phần hỗ trợ của ngành Ngân hàng để bù đắp một phần cho ngân sách, trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, giúp Chính phủ có nguồn chi phục vụ phát triển kinh tế. Và có thể coi đây cách làm riêng của ngành Ngân hàng.

Ngoài ra, bằng nguồn tái cấp vốn, NHNN đã trực tiếp hỗ trợ ứng trước cho công tác giải phóng mặt bằng Quốc lộ 1A, hỗ trợ vốn ưu đãi cho các chương trình cho vay theo Nghị định 67, đánh bắt thủy hải sản, tái canh cây cà phê, tạm trữ lúa gạo, cho vay nhà ở xã hội… Đó là một số minh chứng cụ thể về vai trò của CSTT với chính sách tài khóa trong thời gian qua.

Vâng, những thành công như ông vừa phân tích trên quả khó có thể phủ nhận. Nhưng như Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng đã chỉ ra, điều hành CSTT năm 2016 sẽ còn khó khăn hơn rất nhiều. Vậy theo ông, ngành Ngân hàng sẽ phải đối mặt với những thách thức, khó khăn thế nào trong thời gian tới?

Mặc dù đạt được nhiều thành công và có triển vọng phát triển tích cực, ngành Ngân hàng vẫn đang đối mặt với những thách thức khó khăn:

Hiện nay, CSTT đang được giao thực hiện nhiều mục tiêu làm ảnh hưởng đến hiệu quả trong công tác điều hành. Vai trò của các NHTM hiện nay là quá nặng với tỷ trọng lên đến 75% tổng tài sản của toàn hệ thống tài chính. Trong khi đó, vai trò của thị trường vốn còn nhỏ bé (cung cấp vốn trung và dài hạn), điều này đáng lo ngại khi nền kinh tế phải trải qua những biến động của chu kỳ kinh tế.

Bên cạnh đó, quá trình tái cơ cấu các TCTD mặc dù trong thời gian qua đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn cần thêm những hỗ trợ, giải pháp từ phía Chính phủ và NHNN để thúc đẩy nhất là trong công tác tăng vốn thông qua việc cân nhắc thời điểm nới room cho các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần của các TCTD trong nước từ mức tối đa 30% lên đến 49% và công tác xử lý nợ xấu của các NHTM thông qua các biện pháp tháo gỡ khó khăn trong xử lý tài sản đảm bảo, hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường mua bán nợ, thúc đẩy sự tham gia của tổ chức nước ngoài vào thị trường mua bán nợ…

Và, mặc dù hệ thống ngân hàng đã có những thay đổi tích cực, thể chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện nhưng cũng phải thấy rằng, công tác cải cách hành chính của ngành Ngân hàng trong thời gian qua vẫn còn hạn chế nhất định. Cùng với đó, trong thời gian qua, hoạt động ngân hàng vẫn tồn tại tình trạng “giấy phép con” vừa làm lãng phí nguồn lực của NHNN vừa dễ dẫn đến cơ chế xin – cho không minh bạch…

Nhân đây, ông có đề xuất kiến nghị gì để góp phần đưa ngành Ngân hàng tiếp tục là một năm thành công?

Về phía Quốc hội, Chính phủ, tôi đề xuất cần tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu 3 lĩnh vực trọng tâm vào đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung cho tái cơ cấu đầu tư công và tái cơ cấu DNNN.

Đẩy mạnh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được tăng trưởng bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhất là cần đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào nguồn vốn và tài nguyên sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường pháp lý, chuẩn bị cho hội nhập sâu rộng, bền vững; Tăng cường quản lý và hỗ trợ hoạt động của thị trường chứng khoán để thị trường chứng khoán thật sự là kênh dẫn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế.

Qua cuộc khủng hoảng kéo dài từ năm 2008 đến nay, nhiều bài học chúng ta đã rút ra về cơ chế, chính sách, điều hành và giám sát. Bản chất của kinh tế thị trường là sự thông kênh tương hỗ của các thị trường (Vốn, Tài chính, Chứng khoán, Bảo hiểm, Ngân hàng).

Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần nghiên cứu để thiết lập cơ quan giám sát đủ quyền lực theo thông lệ, tổ chức các hoạt động giám sát đảm bảo an toàn theo thông lệ chuẩn mực về hoạt động của các định chế trong thị trường tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

Về phía ngành Ngân hàng cần tiếp tục phát huy trọng trách trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng. NHNN xác định điều hành các công cụ CSTT theo hướng linh hoạt chủ động, đảm bảo ổn định hệ thống, tạo thuận lợi cho hoạt động các TCTD. Theo đó, các chỉ tiêu điều hành chủ yếu nên ở mức: Tăng trưởng tín dụng: 15-17%/năm; Tỷ lệ nợ xấu < 3%.

Bên cạnh đó, NHNN cần tiếp tục hoàn thành dứt điểm những nội dung tái cơ cấu TCTD giai đoạn 1 trong đó tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo, mua bán nợ… Đồng thời tập trung cho các mục tiêu giai đoạn 2, trong đó nhấn mạnh vào các mục tiêu nâng cao năng lực quản trị, quản trị rủi ro, năng lực cạnh tranh, tính ổn định lành mạnh trong hoạt động các TCTD…

NHNN cũng cần có báo cáo, đề xuất mạnh mẽ hơn nữa với Chính phủ và các bộ/ngành liên quan để tăng cường và nâng cao năng lực tài chính của các TCTD đặc biệt các TCTD Nhà nước đang nắm giữ cổ phần chi phối.

Đối với Công ty VAMC, NHNN cần nghiên cứu, có biện pháp tổng thể, đột phá để hỗ trợ cho hoạt động của VAMC nhằm xử lý dứt điểm khoản nợ mà các TCTD đã bán cho công ty.

Theo chúng tôi, để giải quyết vấn đề này có thể xem xét các giải pháp như khẩn trương thúc đẩy nhanh hình thành thị trường mua bán nợ và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia mua bán nợ; có cơ chế đặc thù cho VAMC trong việc xử lý các khoản nợ đã mua từ các TCTD như: Được hợp thức hóa các tài sản chưa rõ ràng về pháp lý để được chuyển nhượng, tạo thanh khoản; Có cơ chế riêng khi tiến hành các thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản bảo đảm theo hướng nhanh gọn, thủ tục đơn giản;…

Cùng với đó, NHNN cần đẩy mạnh việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Hoàn thiện hạ tầng tài chính – ngân hàng (hệ thống thanh toán, kiểm toán; xếp hạng tín nhiệm; hệ thống thông tin tín dụng…) để tạo điều kiện cho việc nâng cao năng lực quản trị hệ thống cũng như gia tăng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực.

Đặc biệt theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, để đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các ngân hàng, một trong những điều kiện tiên quyết là những hỗ trợ của Chính phủ, NHNN trong giai đoạn đầu. Theo đó, đề nghị NHNN có biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong đầu tư ra nước ngoài làm động lực thúc đẩy quá trình hội nhập ngành Ngân hàng Việt Nam.

NHNN cần có nghiên cứu, hướng dẫn hoạt động của ngân hàng để triển khai các cam kết theo các FTA đặc biệt trước mắt là Cộng Đồng kinh tế ASEAN.

( trích thoibaonganhang)

Share this post